Họ Đào – hành trình hơn 5.000 năm từ Hươu và Liễu đến đế nghiệp Văn Lang


Họ Đào – hành trình 5.000 năm từ Hươu và Liễu đến đế nghiệp Văn Lang

Họ Đào là một trong những dòng họ khai sáng sớm nhất trên đất Việt, hình thành khoảng 3000 năm TCN – khi khái niệm họ tộc mới chớm nở. Người đầu tiên mang họ này là Đào Bột, con thứ hai của động chủ động Cao - Cao Sơn, mẹ là Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, cháu ngoại của động chủ Ma, nội là Đường Nghiêu ở Phượng Lâu, Phú Thọ. Khi chưa lập họ, con người thời ấy thường chọn cho mình một vật linh làm dấu hiệu nhận biết. Ông Bột được ví với con hươu, gia tộc lại chọn cây liễu làm biểu tượng, từ đó Liễu và Hươu trở thành dấu ấn khai tộc.

Mối dây liên kết họ tộc càng bền chặt khi chị gái ông Bột – Đào Liễu – kết hôn với động chủ Lăng; con gái bà lại lấy hậu duệ đời ba của Thần Nông; em trai ông Bột thành thông gia với động chủ người Mường. Năm người con trai của ông Bột tiếp tục kết duyên cùng năm tộc lớn nhất, tạo thành mạng lưới liên minh Xích Quỷ bao gồm 7 dân tộc huyết thống và chính trị bền vững.

Nhờ xuất thân trong gia đình có mối giao hảo với các chủ động lớn – Cao, Ma, Tiên – ông Đào Bột kết hôn trước với bà Phạm Điểm, con động chủ Tiên (không con, mất sớm), sau tái hôn cùng bà Nguyễn Hương, cháu ba đời của Thần Nông. Từ quê tổ Phú Thọ, ông Bột dẫn gia đình mở đất xuống vùng Hải Hưng – Hải Phòng, đặt nền móng liên minh các tộc lớn, chuẩn bị cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang.

Ban đầu ông Đào Bột – là người đại diện quản lĩnh 15 vùng đất thời sơ khai. Con ông, Đào Trường, kế tục mở rộng tầm ảnh hưởng tới 50 vùng. Đỉnh cao, cháu đời thứ 3 là Đào Bích thống lĩnh dải đất rộng lớn từ Diêm Thành (Giang Tô) tới Hội An – Đà Nẵng, cùng các anh em thông gia từ động Cao, động Ma, động Tiên đầu mối liên kết các tộc thân hữu-thông gia (Xích Quỷ), trung tâm đặt tại địa bàn Thanh Oai, Hà Nội, ngã ba sông Hồng, sông Đáy và sông Châu ngày nay.

phương thời Thượng cổ dùng mặt trời làm định hướng đường đi, lúc đó chưa xác định hướng theo La Bàn từ trường trái đất như ngày nay

Để tưởng nhớ công đức tổ tiên, ông Đào Bích khởi xướng truyền thống dựng nơi thờ tự ở mỗi vùng con cháu sinh sống – giúp những người ở xa bản quán vẫn có thể bái vọng tiên tổ. Truyền thống này đã trường tồn qua hàng nghìn năm, trở thành sợi dây gắn kết cộng đồng họ Đào khắp mọi miền.

Dòng chảy lịch sử không ngừng. Trải qua biến thiên các triều đại, hậu duệ họ Đào không chỉ góp mặt trong công cuộc dựng nước Văn Lang (dân gian gọi là nhà nước Xích Quỷ hay nhà nước Âu Lạc), mà còn ghi dấu ấn ở các giai đoạn chống ngoại xâm, mở mang bờ cõi, giữ gìn tín ngưỡng. Tính đến nay, họ Đào đã nối dõi sang đời thứ 172, vẫn gìn giữ được ký ức về Hươu và Liễu – biểu tượng khởi nguyên – như sợi chỉ đỏ xuyên suốt hơn năm thiên niên kỷ, để mỗi thế hệ không quên mình là hậu duệ của những người đã cùng dựng nên buổi bình minh của quốc gia.

Huyền tích, gia phả, dấu tích địa danh… 36 làng Đào xá tất cả vẫn nằm đó, chờ những người hôm nay lần theo để khám phá. Bởi biết đâu, trong dòng máu của mình, bạn cũng đang mang một nhánh của câu chuyện 5000 năm này…

Nhà nước Văn Lang được hoàn thiện qua 4 giai đoạn đến 65 Thành

  • Giai đoạn 1: Nhà nước người đứng đầu gọi là Hùng với 15 vùng (gọi là 15 Bộ) và người phụ trách giám sát là Sùng, phụ trách phát triển sản xuất nông nghiệp là Lộc.
  • Giai đoạn 2: Nhà nước người đứng đầu gọi là Vệ Đàn và gồm 50 vùng gọi là Trần Doãn mỗi người đứng đầu các Trần Doãn gọi là Hùng.
  • Giai đoạn 3: Nhà nước có người đứng đầu gọi là Bàn Cổ và các vùng gọi là Cổ, mỗi Cổ người đứng đầu gọi là Hùng và điều phối và 8 lĩnh vực 8 bộ ngày nay là
    • 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (狀元古堂)
    • 2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (樵隱古碧)
    • 3. Bộ Y tế (藥嶺古園)
    • 4. Bộ Giao thông Vận tải (雁灣古渡)
    • 5. Bộ Nội vụ (上宰古宅)
    • 6. Bộ Quốc phòng (拋山古城)
    • 7. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (雲僊古洞)
    • 8. Bộ Khoa học và Công nghệ (星妃古塔)
  • Giai đoạn 4: hoàn thiện với người đứng đầu gọi là Vương với 65 vùng gọi là Thành, đứng đầu mỗi thành là Đại Vương và trung tâm điều hành bao gồm 6 Phủ người đứng đầu mỗi phủ gọi là Phủ Quân, trong đó 1 Phủ trung tâm5 Phủ chức năng điều phối 5 lĩnh vực tương đương 5 Bộ ngày nay là:
    • 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (文知)
    • 2. Bộ Công an (德岸)
    • 3. Thanh tra Chính phủ (德臺)
    • 4. Bộ Ngoại giao (德敵)
    • 5. Bộ Tư pháp (法道)
Người họ Đào theo dòng lịch sử

Kinh Dương vương - Hùng Việt Vương (2919 TCN - 2792 TCN)

  • Đào Công Bột: Sự tích về Trung Thành Đại vương có thể tóm tắt như sau. Vào đời Hùng Duệ Vương, có ông bộ trưởng Hải Dương là họ Đào tên Bột, lấy vợ thứ, sinh một bầu năm trứng, nở ra 5 người con trai, đặt tên là Cự, Hồng, Trưởng, Thạch Khanh, Quý Lân. 5 người con có hình dung tướng mạo kỳ dị, tính ưa chơi đùa dưới nước, khi trưởng thành sớm có kỳ tài dị thuật. Khi vua Hùng mở trường thi tuyển hiền, 5 người ra ứng thí, được nhà vua phong chức trong, phụ trách 5 phương. Các ông nhận nơi trị nhậm, an yên dân chúng ở đó, mưa nắng thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Khi đất nước có quân Thục đến đánh, các ông cùng với Tản Viên Sơn Thánh dẫn quân chống giặc. 3 vị Cự, Hồng, Quý hóa sớm. Ông Trưởng được thăng chức là Thổ Lệnh Trưởng, cầm đầu thủy quân, phá tan giặc. Rồi ông lại đánh giặc Hồng Châu, chém đầu tướng giặc. Sau ông được phong là chưởng quản thuyền rồng, là Trung Hoa tể quốc, đi tuần hành khắp dọc các sông. Ông xây dựng cung thứ nhất ở ngã ba Bạch Hạc, cung thứ hai ở ngã ba sông Lương giang, và nhiều hành cung các nơi khác. Sau này ông hóa ở cung Tông Chất (tức Đa Chất ở Lương giang), được tôn thờ là Trung Thành Phổ Tế Đại vương. Đến đời Đường Vĩnh Huy, đô đốc Giao Châu là Lý Thường Minh có gặp các ông hiển ứng ở quán Tam Thanh tại ngã ba Bạch Hạc. Khi đó hai ông Thổ Lệnh và Thạch Khanh thi đấu tài nghệ. Ông Thạch Khanh lấy sức nhảy qua bờ bên kia sông thì đã thấy ông Thổ Lệnh ở đó trước. Thế là Lý Thường Minh cho tạc tượng hai ông để thờ trong quán Tam Thanh bên bến Việt Trì. Truyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh.

Thời Hùng Vương thứ VI (1712 – 1632 TCN)

  • Trấn Quốc Đào Tướng Công là tướng tài nhất trong sáu tướng làm Đại tướng công và lập được công lớn. Đánh giặc xong, chàng Gióng đi đến núi Sóc (Sóc Sơn) cởi bỏ mũ, áo giáp sắt bay lên trời. Vua Hùng vương thứ VI ghi công, dân tôn ngài là Phù Đổng Thiên Vương. Đào tướng công vẫn ở trần thế gánh vác trọng sự, được vua phong làm Trấn Quốc đại tướng quân trông nom việc quân.
    Giặc Ân không dám sang xâm lược nước ta. Trấn Quốc đại tướng quân giúp vua Hùng Vương VI tạo dựng nền thái bình thịnh trị. Dân làng Phù Đổng và dân quanh vùng nhớ ơn lập đền thờ Thánh Gióng. Ngài trở thành vị thần đứng đầu trong tứ bất tử của nước ta (Tứ bất tử là: Thánh Gióng, Thánh Tản Viên, Mẫu Liễu Hạnh và Chử Đồng Tử).

Thời Hùng Vương thứ VII - Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL)

  • Thái tổ mẫu Đào Liễu được phụng thờ tại đền Chân Suối, thân mẫu của tổ mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu là vợ của Vua Hùng thứ VII.

Thời Hùng Vương thứ XVII

  • Đào Tiên Nương - Quê ở trang Hán Nam, (thời Nguyễn thuộc tổng Hán Nam, huyện Tiên Minh) nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Tra cứu các nguồn tài liệu ở thời kỳ Nhà nước Văn Lang do các vua Hùng trị vì thì thấy có có vị danh tiên, danh tướng đầu tiên là Hoàng Hậu Tiên Nương, vị hoàng hậu thứ tư của đời vua Hùng Vương thứ 17, Hùng Nghị Vương đã được các triều vua thời Nguyễn phong thần là Thiên Hoàng Tiên Công chúa hiện đang được thờ tại đình Hán Nam, thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Căn cứ phả hệ triều Hùng thì thấy một vị thần tên hiệu là Đào Tiên Nương, húy là Tiên con ông Đào Ngoạn và bà Dương Thị Đoan, một gia đình hào phú ở trang Hán Nam, nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Vua Hùng Nghị Vương trong một lần đi tuần thú gặp Tiên Nương xinh đẹp bèn thu nhận làm vợ và phong làm Hoàng hậu, sau Tiên Nương giúp Hùng Nghị Vương đánh giặc ở Nam Sách, bộ Dương Tuyền, thắng trận xong bèn xin về vùng Hán Nam giúp đỡ dân trang. Sau mất được dân trang lập miếu thờ, nay là Đình Hán Nam, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng.

Thời Hùng Vương thứ XVIII

  • Đào Trường - một vị tướng tài đã ba lần giúp vua Hùng Vương thứ 18 đánh tan giặc ngoại xâm và được vua Hùng phong là Thổ lệnh thống quốc đại vương.
    • Miếu làng Võng Ngoại, x Võng Xuyên, h Phúc Thọ, HN nơi Thủy Tinh gặp Sơn Tinh. Miếu nằm bên ao nhìn ra Đình. Miếu có thần tích khá chi tiết về dòng dõi Thánh Tam Giang Bạch Hạc Đào Trường với năm anh em (Ngũ Vị Tôn Quan) hay người bố Đào Bột có hai phu nhân và chuyện ngài ba lần đánh giặc ... Thần tích ghi tại Miếu về Đức Thánh TAM GIANG BẠCH HẠC như sau:
    • Truyền rằng thời Hùng Vương thứ 18 Hùng Duệ Vương ở Huyện An Lão phủ Kinh Môn có người tên là Đào Bột nhà dòng dõi (vua Hùng) chí khí khác người. Năm 10 tuổi ông về kinh ứng thí được phong chức Thái Phó. Ông kết hôn với bà Phạm Thị Điểm, vài năm sau bà mất ông lấy bà vợ thứ là Nguyễn Thị Hương người huyện Kim Bảng xứ Sơn Nam. Một hôm Đào Công mơ thấy điềm lành một thời gian sau Phu Nhân (không nói rõ phu nhân nào) đến giờ Thìn ngày 12 tháng 2 năm Đinh Mão sinh được một BỌC có năm người con trai dung mạo khác thường, được ba tháng mười ngày ông bà làm lễ đặt tên các con là: Cử, Cường, Trường, Thạch Khanh và Lê Lân. Đến năm 19 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời. Vài năm sau đất nước bị thiên tai mùa màng thất bát, trộm cắp giặc giã nổi lên. Vua Hùng xuống chiếu cầu tài, cả năm anh em đều được phong tướng cử đi dẹp giặc, người thứ ba tức Đào Trường được cử làm Thổ Lệnh trưởng cai quản xứ Sơn Nam. Vài năm sau các ông thứ nhất, thứ hai và thứ năm (có thần tích ghi thứ tư) qua đời đều được phong Phúc Thần cũng là lúc giặc Thục đánh đất nước. Vua Hùng mời Thổ Lệnh Đào Trường bàn đánh giặc, Đào Trường tâu nên đón đường thủy mà đánh, vua chấp nhận và phong cho chức NAM LONG TRƯỞNG LỆNH CHÚA TỂ QUẬN PHONG CHÂU đem quân đánh giặc, trận này thắng to 5000 quân giặc bị diệt, bắt tướng Thục.
    • Lần thứ 2 sau quân Thục lại tấn công, Vua lại cử ông đi dẹp giặc, ông cùng Tản Viên Sơn Thánh phá tan quân giặc.
    • Lần thứ 3 giặc Hồng Châu thay quân Thục kéo sang đánh, Vua lại cử ông đi đánh, phá được giặc, lấy đầu tướng giặc là Trương Dũng. Nhân dân đón mừng (Theo tt ở Kim Tiên lúc về ông mất ở Hưng Yên). Ngày 10 tháng 5 Đào Trường giao cho em là Thạch Khanh chỉ huy quân đội sau đó ra ngã ba sông (ngã Ba Lương) rồi biến thành hạc trắng bay lên trời. Vua phong ngài là Thượng Đẳng Phúc Thần cho dựng Quán thờ ở thành Phong Châu cho phép 172 làng thờ thánh TAM GIANG BẠCH HẠC, trong đó có làng Võng Ngoại.

Hùng Duệ vương 雄睿王 408 – 258 TCN

  • Đào Đô – Đào Đài Vốn là hai anh em, quê ở trang (xã) Lũ Đăng ( sau đổi là Bắc Phong), tổng Hán Nam, huyện Tiên Minh, nay là thôn Liên Phong xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng có công giúp Hùng Duệ Vương chống lại Thục Phán, lập được nhiều công lớn. Sau mất được dân hai làng Bắc Phong, Nam Phong lập đình, miếu để tôn thờ. Các vua triều Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định đều ban sắc làm thành hoàng, phong tặng:
    • Đào Đài là Thân Linh Lương Đài Tuấn Triết Linh Sảng Đại Vương.
    • Đào Đô là Đô Đại Thành Hoàng Cao Thuyền Anh Nghị Đại Vương.
  • Đào Lan Các tư liệu ghi chép về vị thành hoàng mang tên húy là Đào Lan hiện đang được tôn thờ tại đình và miếu làng Trữ Khê nay thuộc phường Đồng Hòa, quận Kiến An hiện chưa được biết tường tận. Ghi chép của bộ Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng chỉ cho biết cùng với các vị thần được thờ ở đây như Quí Minh, Bạch Thiên Quan, Thiên Quan Thuần Chính, Đào Lan đều là những nhân vật có nguồn gốc thời vua Hùng Duệ Vương, vị vua cuối cùng của thời đại Hùng Vương dựng nước, đã có sắc phong của các triều vua thời Nguyễn.
  • Đào Hoa Chưa rõ sự tích. Sách TĐBKĐD Hải Phòng dẫn tư liệu từ bản khai thần tích của Lý trưởng xã Thượng Lý xưa ghi Đào Hoa cùng với Dy Hoa là hai vị thiên thần có sắc phong là hai vị vua bà, được thờ ở đình và miếu Thượng Lý từ lâu.
  • Tương truyền khi nhà Thục đưa đại binh sang xâm chiếm nước Văn Lang, Vua Duệ Vương cùng quần thần trực tiếp ra đánh giặc, nhưng vì thế và lực không cân nên vừa đánh vừa rút lui. Tới địa phận xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc thì trời xế chiều, vua hạ chiếu cho quân thần dựng trại để nghỉ, đến đây Vua mời 3 chị em họ Đào là Đào Công Hải, Đào Thị An, Đào Công Thông về hậu bổng yết kiến, rồi phong cho Đào Công Hải là quyền trưởng Trung Hoa quốc tể; Đào Công Thông là Thống trưởng tướng quân. Hai vị nhận chức, điều khiển toàn bộ 30 vạn binh mã, chia làm nhiều mũi tiến đến đồn giặc đánh phá. Chỉ một trận đánh, giặc Thục đã tan tác, những tên sống sót tranh nhau tẩu tán. Đất nước trở lại thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp…

Thời An Dương Vương (257 - 208 TCN)

  • Tướng Đào Đạt, Đào Minh người làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có công đánh giặc giúp nước hiện Hai ông được thờ tại đình Tam Tảo
  • Lễ hội làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du. Được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 2 hàng năm. Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương Trần Quý và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu Phương Dung. Tưởng nhớ ớn hai vị tướng Đào Lại Bộ người có công giúp Thục Phán An Dương Vương đánh Triệu Đà xâm lược

Thời Văn Lang - Âu Lạc  (208 TCN - 179 TCN) 

  • Nồi Hầu (Đào Nồi) là tướng  trong triều đình Âu Lạc và hai người con trai là Đống Vịnh và Lý Vực đều được làm quan võ trong triều. Ông quê làng Canh (nay là Tam Canh, Hương Canh, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) có cha tên là Đào Hoằng.

Thời Hai Bà Trưng (40-43)

  • Bắc Bình Vương Đào Kỳ - Phương Dung
  • Đào Hiển Hiệu
  • Đào Đô Thống
  • Đào Thượng thờ tại đền Canh Sơn tục gọi đền Bì tại thôn Vân Đôi, xã Đoàn Lập, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng
  • Đào Quý Nương bà là một nữ tướng đã đã chiêu binh tụ nghĩa, kéo về Hát Môn cùng Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống giặc. Sau khi cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu, Đào Quý Nương được phong làm Giám sát nguyên suý, phong hiệu là Công chúa. Khi Mã Viện kéo quân sang đàn áp, nghĩa quân không đủ sức chống lại, bà đã cùng tuẫn tiết theo Hai Bà Trưng
  • Doãn Công và Đào Nương ở Gia Bình, Bắc Ninh: Đây là hai vợ chồng cư ngụ tại làng Bảo Tháp, nay thuộc xã Đông Cứu, huyện Gia Bình. Ông bà đã chiêu tập nghĩa binh, thiết lập doanh trại khu Đầu Rồng, núi Thiên Thai. Lực lượng tới hàng vạn quân. Hai Bà Trưng đã mời Doãn Công và Đào Nương cùng khởi binh. Doãn Công được cử là đại tướng quân kiêm quản hai đạo thủy bộ. Sau đó ông bà cùng đại quân tiến đánh thành Tô Định. Khi khải hoàn, Doãn Công và Đào Nương được phong thực ấp ở Bảo Tháp.
  • BA VỊ CHÍ SĨ ĐẠI VƯƠNG, QUẠT NGÀ CỬA NGÒI CÔNG CHÚA, HỒNG VÂN CÔNG CHÚA ở Bình Lục, Hà Nam. Ở bộ Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc có Dương Trực, còn gọi là Học. Ông Học đã hứa hôn với hai chị em Nga Nương và Hồng Nương họ Đào ở thôn Xanh thuộc làng Ngô Khê. Tô Định định cướp hai cô gái họ Đào. Ông Học liền kết hôn với hai cô rồi tập hợp được sáu nghìn người theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, giữa hôm Trưng Vương đến chợ nhà Học Công thì trời nổi gió và Học Công cùng Nga Nương, Hồng Nương vụt biến. Trưng Vương phong cho Học Công là Chí Sĩ đại vương và hai vợ là Quạt Ngà Cửa Ngòi công chúa và Hồng Vân công chúa.
  • Thân mẫu Đào Thị Dực , Chồng bà là Đỗ Năng nguyên quán ở Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) sau dời sang cư ngụ ở trang Khánh Hợp (nay thuộc xã Tam Hiệp) làm nghề bốc thuốc. Đỗ Năng lấy vợ người làng này và sinh được một trai, đặt tên là Đỗ Năng Tế. Lớn lên Năng Tế nổi tiếng là thông tuệ, làm bạn với con gái thầy học là Tạ Cẩn Nương. Bà Man Thiện nghe thấy tiếng liền cho mời vợ chồng ông tới dạy bảo cho hai con gái là Trắc và Nhị.
  • ĐÀO KHANG Làng Phú Hòa xưa là Phú Đa, tên Nôm là làng Gia nay thuộc xã Bình Phú. Nơi đây thờ Đào Khang. Ông vốn là người trang Kiệt Đặc bên Hồng Châu (nay là tỉnh Hải Hưng). Sau khi cha mẹ chết, ông dời quê, đi lưu lạc kiếm sống. Đến Phú Đa, ông ở lại cấy cày lập nghiệp. Nghe tin Hai Bà truyền hịch đánh giặc Hán ông đứng ra chiêu mộ trai tráng trong vùng, được trên nghìn người. Và tất cả lên đường theo Hai Bà ra trận. Chiến thắng trở về, ông lập đồn binh ở Phú Đa và mất tại đây ngày mùng 3 tháng Tư.
  • Đào Thành làm “Thủy đạo Đại tướng quân” đem quân đóng giữ hai bờ sông Cái. Một ngày kia, ngài tiến quân đến bãi Tự Nhiên và đóng quân ở đây. Một ngày nọ Hai Bà Trưng điều ngài lên Lạng Sơn đánh giặc. Ngài đã chỉ huy 500 quân, tiến quân bằng thuyền. Trận đánh xảy ra rất ác liệt, tên bắn như mưa nhưng ngài cùng quân sĩ hăng hái chiến đấu xông lên làm cho quân địch đại bại. Khi Hai Bà thu phục được 65 thành, đóng đô ở Mê Linh, Hai Bà cho ngài công đầu, cấp cho ngài thực ấp ở bãi Tự Nhiên
  • Đào Linh Quang Thần tích cho biết, thần vốn quê ở trang Vĩnh Thế, phủ Kinh Môn đến trang Cựu Đôi nay thuộc thị trấn Tiên Lãng làm nghề dạy học. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, ông đã cùng bạn bè và dân trang Cựu Đôi theo Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Đào Linh Quang được Hai Bà Trưng ban chức Trung Phẩm Đại Tướng quân Sau mất được dân lập đình thờ, nay là đình Cựu Đôi. Các triều vua thời Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định đều ban sắc phong là thành hoàng, cho phép dân trang Cựu Đôi lập đình thờ. Đình Cựu Đôi là một ngôi đình lớn, là một trong Ngũ Linh Từ của huyện Tiên Lãng xưa.
  • Đào Hạo - Thần vốn quê ở trang Văn Giang, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Thủa nhỏ bẩm tính thông minh nhưng nghịch ngợm và đã nghĩ ra một trò chơi là ngầm quăng một hòn đá to xuống ao rồi cùng bạn bè mò lặn, thi tìm hòn đá. Năm 542, Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, Đào Hạo chiêu mộ dân binh ứng nghĩa và lập nhiều công lớn nên được phong chức Chỉ huy sứ phụ trách miền Duyên hải phía đông. Ông thấy trang Kỳ Sơn có hình thế thuận lợi bèn đặt quân dinh ở đây. Khi ông qua đời, dân Kỳ Sơn lập đình thờ, được các triều vua sau này phong sắc làm phúc thần ở Kỳ Sơn với thần hiệu là “Hạo Công Nam Hải Linh Ứng Đại Vương”. Một số tài liệu thường hay viết tắt là “Nam Hải Tôn Thần” nên nhiều người hay nhầm là Nam Hải Đại Vương Phạm Tử Nghi. Trò chơi dân gian chạy đá hay tục mò đá trong lễ hội đình Kỳ Sơn ở xã Tân Tào, huyện Kiến Thụy là có nguồn gốc từ vị thành hoàng Đào Hạo khi ông dùng trò chơi này để luyện thủy quân, được người dân Kỳ Sơn tổ chức trong lễ hội để tưởng nhớ công lao của vị thành hoàng Đào Hạo.
  • Đào Tam Nương Quê ở Tràng Duệ, xã Lê Lợi, huyện An Dương. Tư liệu về vị Đào Tam Nương hiện mới chỉ biết bà là vợ của tướng công Nguyễn Đình Thản có công giúp vua Lý Nam Đế đánh giặc Lương hồi cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7 thời Bắc thuộc, được dân làng thờ cùng thành hoàng Nguyễn Đình Thản do sinh thời bà thường hay giúp người nghèo khó và cũng được vua triều Nguyễn ban sắc phong cho phép thờ tự tại đình làng Tràng Duệ, xã Lê Lợi, huyện An Dương.

Thời Tiền Lý (503-548)

Đại vương Đào Công Tuấn vùng Nam Sách, Hải Dương cùng Phạm Tu theo giúp Lý Bí tham gia cuộc Khởi nghĩa đuổi Tiêu Tư đánh giặc Lương, hiện nay ông được thờ tại Đền Lang Khê, thôn Lang Khê xã An Lâm huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương.

Thời Ngô Quyền tự chủ (938)

  • Đào Nhuận ông là người tham gia trận thủy chiến trên cửa sông Bạch Đằng năm 938 là một trong hai Dân tướng người địa phương cùng Nguyễn Tất Tố sung phong hiến kế cùng đội quân Ngô Vương đánh tan quân Nam Hán.

Thời Đinh

  • Đào Tế, Đào Lai, Đào Độ 3 anh em họ Đào có công dẹp loạn và làm quan nhà Tiền Lê. Hiện thờ ở Đền Trinh Hưởng, Thiên Hương, Thủy Nguyên, Hải Phòng
  • Đào Thành thờ tại Đình Thổ Khối, Cự Khối, Long Biên
  • Đào Trực, tướng Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành sau này. Ông có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân và giặc Tống xâm lược, sau lại truyền nghề mỹ nghệ cho dân làng Sơn Đồng
  • Đào Liên Hoa, có công dẹp loạn và mở mang đất hoang. Ông được Đinh Bộ Lĩnh phong làm Tây Vị Đại Vương rồi được cử đi Chánh sứ sang Trung Quốc. Khi huyện Gia Lâm có giặc loạn nổi lên, ông đem quân đi dẹp rồi lập đồn cùng trang ấp ở Thổ Lỗi, dậy nhân dân sản xuất, xây nhà cửa lo cuộc sống. Dân làng Sủi đã lập đình Sủi thờ ông và tôn ông là Thành hoàng làng
  • Đào Công Thắng là vị tướng văn võ toàn tài đã giúp vua Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, được phong làm đại vương lục quốc triệu lễ bộ công của triều đình. Nhân dân nhớ công ơn người, đã lập đình thờ người và tôn là Thành Hoàng Đình Hướng Xá, Quất Động, Thường Tín đô hộ Hùng kế Đống Binh Đại Vương
  • Đào Đình Quế Hồng Lĩnh Tráng Trần, tướng của vua Đinh Tiên Hoàng, có công dựng lên làng rồi mất ở làng Bình An. Thư mục thần tích, thần sắc năm 1938, nói ông là Đào Đình Quế.
  • Đào Ngọc Sâm có công dẹp 2 sứ quân nhà Ngô, được Đinh Tiên Hoàng phong Tham tán mưu sự thống lĩnh thủy bộ chu doanh đại tướng quân. Sau này Đào Ngọc Sâm tiếp tục giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống. Hiện ông được thờ tại Miếu Rồng, Nhật Tân, Gia Lộc, Hải Dương
  • Đào Lang thời nhà Đinh có công tạo dựng lập làng Trịnh Lộc và lập được nhiều công tích dẹp loạn 12 sứ quân và kháng chiến chống Tống (lần thứ nhất), sau được Vua Lê Đại Hành giao việc đào kênh Nhà Lê. Hiện ông được thờ tại Đình Bùi Hạ, Yên Phú - Yên Định, Thanh Hoá.
  • Đình làng Đoan Bái thờ Cương Nghị Đại Vương và Diên Bình Đào Yêu Công Chúa, triều Đinh Tiên Hoàng.[103] Cương Nghị Đại Vương tên húy là Lý Cương Nghĩa,[104] cùng với phu nhân Đào Diên Bình, được sắc phong Đào Thiên Nương có công giúp Đinh Tiên Hoàng đế đánh dẹp 12 sứ quân, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Hiện 2 bà được thở ở Đình Đoan Bái, Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang

Triều Lý

  • Thái sư, Á Vương Đào Cam Mộc người có công đầu đưa Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, ông người Tràng Lang, Định Tiến, Yên Định, Thanh Hoá
  • Đào Thạc Phụ Khi vương triều Lý bắt đầu thành lập, Chiêm Thành có sai sứ sang cống (năm 1011), nhưng đến năm 1020, Lý Thái Tổ đã sai con là Khai Thiên Vương và tướng Đào Thục Phụ vào đánh Bố Chánh. Năm 1044, Lý Thái Tông đem quân tiến vào kinh đô của Chiêm Thành là Chà Bàn (Bình Định ngày nay) giết vua Chiêm là Xạ Đẩu. Bị thất bại nặng nề, Chiêm Thành bề ngoài phải thần phục, cống nạp nhà Lý, nhưng bên trong luôn tìm cơ hội đánh lại nhà Lý để báo thù. Từ những năm 1050, vua Chiêm Thành là Chế Củ thường khiêu khích Đại Việt, ra sức chuẩn bị về quân sự để chờ thời cơ đánh Đại Việt. Từ năm 1065, được nhà Tống ủng hộ, Chế Củ cắt đứt hẳn quan hệ với Đại Việt. Năm 1068, Chiêm Thành đưa quân xâm lấn biên giới, vượt biển vào cướp phá Nghệ An. Để dẹp nguy phương nam, phòng hoạ phương bắc, vua Lý Thánh Tông quyết định đánh Chiêm Thành. Năm 1069, vua Thánh Tông hạ chiếu thân chinh cầm quân đánh Chiêm Thành, bắt sống vua Chế Củ. Chế Củ phải cắt cho nhà Lý ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị) để được tha về(1) (Trương Hữu Quýnh, Sách đã dẫn , tr. 135-136).
  • Đào Văn Lôi làm Tả Phúc Tâm thời vua Lý Thái Tông năm 1029
  • Đào Xử Trung là một vị tướng giúp Lý Thái Tông dẹp nội loạn, đánh Chiêm Thành vào tháng 4/1043; sau ông được Vua Lý Thái Tông phong làm Thái Bảo phụ trách việc giám hộ và phụ tá vị vua Lý Thánh Tông khi còn nhỏ tuổi.
  • Đào Phán - Một bộ tướng của Tô Trung Từ hậu duệ Tô Hiến Thành, ông tham gia dẹp loạn Quách Bốc, cứu giá Thái tử Sảm. Sau lên làm Vua Lý Huệ Tông năm 1210.

Thời Triều Trần

  • Trạng Nguyên Đào Tiêu - Quê quán: Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh
  • Đào Tử Kỳ nhà ngoại giao: An Nam chí lược 4 tờ 56 cũng viết tương tự: “Chí Nguyên Quí Tỡ (1293) sai tướng Đào Tử Kỳ sang cống. Vua cho nhiều lần gọi không vào chầu, giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam hành tỉnh, sai Lưu Quốc Kiệt cùng chư hầu vương Y Dĩ Cát Đạt đem quân đi đánh. Đại vương Ích Cát Lý Đãi (Ikirôdai) tổng chỉ huy. Mùa đông ấy đóng quân ở tỉnh Giang, đợi mùa thu sang năm thì sẽ tiến đánh”. Và trong khi ở Tỉnh Giang, Lưu Quốc Kiệt bắt đầu gây sự với nước ta bằng cách gửi thư cho vua Trần Nhân Tông về việc Đại Việt chi viện cho nghĩa quân Hoàng Thánh Hứa ở Quảng Tây và nguyên văn còn chép trong An Nam chí lược 5 tờ 64-66. Tuy nhiên, ngày Quí Dậu tháng Giêng năm sau, Hốt Tất Liệt chết. Nguyên Thành Tổ lên ngôi. Kế hoạch xâm lược nước ta bị bãi bỏ. Đào Tử Kỳ được trở về nước. Thế là chấm dứt mọi kế hoạch gây chiến với nước ta. Cuộc đấu tranh để bảo vệ hòa bình đã đi đến hồi thắng lợi. Nhân dân Đại Việt có thể yên ổn làm ăn. Mùa xuân ngày 9 tháng 3 năm Quý Tỡ (1293) vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con mình là hoàng thái tử Thuyên và lên làm Thái Thượng hoàng. 
  • Trạng Nguyên Đào Sư TíchTrạng nguyên Đào Sư Tích người xã Song Khê, huyện Yên Dũng, Bắc Giang, làm quan đến chức nhập nội hành khiển”, Ông Ba lần đi sứ Trung Nguyên và được phong Lưỡng Quốc Trạng Nguyên

Thời Lê Sơ

  • Trạng nguyên Khai Khoa Đào Công Soạn

Thời Lê Trung Hưng

  • Bảng Nhãn, Đại Danh Y Đào Công Chính
  • Đào Biểu

Thời Chúa Nguyễn

  • Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ

Thời Chúa Trịnh

  • Đào Quang Nhiêu

Thời Nguyễn

  • Đào Doãn Địch
    • Giữa tháng 7 năm 1885, chủ tướng Đào Doãn Địch tổ chức đánh chiếm thành tỉnh Bình Định. Trừng trị viên quan thân thực dân Pháp là Tổng đốc Lê Thận xong, quân của ông còn kéo nhau đi đánh phá các làng theo đạo Thiên Chúa giáo. Từ Quy Nhơn, quân Pháp kéo lên đàn áp. Đoàn Doãn Địch dàn quân kháng cự lại. Hai bên giao tranh dữ dội ở Trường Úc và Phong Niên. Trước hỏa lực mạnh, lực lượng của Đoàn Doãn Địch bị đánh tan, buộc vị thủ lĩnh này phải chạy về đại bản doanh của Mai Xuân Thưởng, lúc này đang đặt tại Lộc Đổng (Đồng Hươu) ở thôn Phú Phong (huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định).
    • Tháng 9 năm đó (1885), Đào Doãn Địch lâm bệnh mất, Trước đây, khi Mai Xuân Thưởng ứng nghĩa, được Đào Doãn Địch phong làm Tán tương quân vụ; nay trước khi mất, ông cử Mai Xuân Thưởng lên làm Nguyên soái thay mình. Sau khi làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, Mai Xuân Thưởng cho xuất quân và giao chiến với đối phương nhiều trận tại Cẩm Vân, Thủ Thiện, Hòn Kho (Tiên Thuận)...Hồi này, theo giúp sức Mai Xuân Thưởng, có các ông: Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Bùi Điền, Đặng Đề, Nguyễn Hóa, Lê Thượng Nghĩa, Hồ Tá Quốc, Võ Đạt... cùng hàng ngàn sĩ phu và nhân dân các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận...
  • Đào Trí Đào Trí văn võ song toàn, Ông xuất thân từ tầng lớp bình dân, có tài thao lược về binh pháp
  • Đào Tấn

Thời đại ngày nay

  • Đại tướng Đào Nguyễn Quyết
  • Thượng tướng Đào Đình Luyện
  • Đào Duy Anh
  • Đào Duy Tùng
Di tích thờ Danh nhân họ Đào

Đền thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc

Các địa danh có tên đường đặt theo tên Danh nhân người họ Đào
Tại Hà Nội:
Phố Đào Duy Từ
Đường Đào Cam Mộc tại huyện Đông Anh, Hà Nội
Đường Đào Duy Từ
Đường Đào Tấn
Đường Trọng Lịch
Đường Đào Hinh

Bài viết mới
Họ Đào – hành trình hơn 5.000 năm từ Hươu và Liễu đến đế nghiệp Văn Lang