Một số Đình, Đền, Chùa thờ Thành Hoàng người họ Đào tại Hà Nội


Để giúp Cộng đồng Dòng họ Đào và bạn đọc, những ai quan tâm nghiên cứu hay tìm hiểu các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh trên mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, donghodao.vn xin trân trọng giới thiệu bài tổng hợp về môt số đình, đền, chùa cũ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội có 40 di tích thờ các Danh nhân, Danh tướng là người họ Đào.

QUẬN BẮC TỪ LIÊM

  1. Đình Đăm ở phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm.
    Đình Đăm hay còn gọi là đình Tây Tựu là công trình kiến trúc cổ kính được xây dựng từ thời Lê, do bà Nguyễn Thị Tính, một người phụ nữ tài sắc của quê hương đã trở thành cung phi thứ 8 của vua Lê Thế Tông (1573-1599), cho dân lấy gỗ, kén thợ giỏi ở kinh đô về Tây Tựu xây dựng đình làng.
    Thờ Đức thánh Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường có công đánh quân Thục bảo vệ nhà nước Văn Lang.
    Lễ hội: 09-11/3
  2. Đình Kiều Nhị ở thôn Kiều Mai, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, nay là Phúc Kiều, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Được xây dựng năm 1672. Thờ thần Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường, có công đánh giặc Thục bảo về vương triều Hùng Duệ Vương.
  3. Đình Phú Diễn ở th. Phú Diễn, x. Phú Diễn, h. Từ Liêm, nay là thôn Phú Diễn, p. Phú Diễn, q. Bắc Từ Liêm. Chưa có tài liệu nào ghi chép chính xác về niên đại của đình nhưng trong bia hậu có nói tới việc hậu thần đã bỏ tiền ra sửa đình từ thời Gia Long (1807). Thờ thần Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường thời Hùng Vương. Lễ hội: 14-15/3
  4. Đình Yên Nội  ở đường Yên Nội, p. Liên Mạc, q. Bắc Từ Liêm Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng. Thờ  Bạch Hạc Tam Giang tức Thổ lệnh Thống quốc Đại Vương Đào Trường có công đánh lại Thục Phán bảo vệ nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Lễ hội: 24/3

QUẬN CẦU GIẤY

  1. Đình An Hòa hay còn có tên gọi khác là An Hòa Linh Từ hay Đình An Hòa Cổ, Đình An Hòa Xã. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII – đầu XVIII, tọa lạc tại 79 Đ. Cầu Giấy, Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội. Đình An Hòa phụng thờ các vị phúc thần có công đất nước và người dân làng An Hòa, bao gồm thần Bạch Hạc Tam Giang - Đào Trường, Linh Lang đại vương, Kiều Đức Mậu,…

QUẬN ĐỐNG ĐA

  1. Đình Thổ Quan số 215 ngõ Thổ Quan (phía bên số lẻ phố Khâm Thiên) thuộc phường Thổ Quan, quận Đống Đa, Hà Nội.
    Đình Thổ Quan thờ ba anh em họ Đào là Hiển Hựu, Phương Dung, Quý Minh làm thành hoàng, cả ba đều được phong là “Thượng đẳng phúc thần” vì đã có công tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng những năm 40 thế kỷ I. Ở Thổ Quan còn có những địa danh như khu ống Lệnh, ngõ Lệnh Cư, Bãi Trận... là những nơi tập hợp nghĩa binh, tập trận, nghe tiếng ống lệnh là xuất phát tấn công quân địch... Khi khởi nghĩa Hai Bà thất bại, ba anh em cùng về Thổ Quan và mất ở đó.

QUẬN HAI BÀ TRƯNG

  1. Đền, Đình, Chùa Hòa Mã ở số 3 phố Phùng Khắc Khoan, p. Ngô Thì Nhậm, q. Hai Bà Trưng.
    Tương truyền có từ thời Lý
    • Chùa Hòa Mã (Thiền Quang tự) nằm trong một hệ thống kiến trúc bao gồm đình - đền - chùa, được xây dựng trên 1 khu đất Cao bằng phẳng, gọi là gò Kim Quy thuộc làng Hòa Mã.
      Làng Hòa Mã vốn có tên Đổi Mã là nơi vua Lê đến tế Nam Giao thay áo trước khi tiến hành nghi lễ.
    • Đền Hoà Mã có tên Tiên Thiên từ hay Lưu Ly điện. Theo tấm bia ở sau chùa Hòa Mã thì đình và đền do ông Năm họ Đào xây dựng lên. Ông Năm họ Đào chính là Đào Duy Từ (1572-1634), một danh nhân của Hà Nội và cũng là danh nhân đất nước. Đào Duy Từ là con thứ năm của vị chủ giáo phường (Phường hát) của Thăng Long. Cha con ông đã có công chiêu dân ca xướng lập làng Hòa Mã. Là con nhà phường hát, theo quy chế triều Lê -Trịnh, không được đi thi, dù ông học giỏi nổi tiếng thời bấy giờ, nên ông đã bỏ vào Nam theo chúa Nguyễn. Như vậy, theo sự tích thì đình, đền Hòa Mã có thể được xây dựng vào đời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).
    • Đền Hòa Mã thờ Chúa Liễu Hạnh cùng các Mẫu trong tín ngưỡng dân gian truyền thống.     
      Đình Hòa Mã không rõ được khởi dựng khi nào, được đại trùng tu đầu năm 2010.
      Thờ vị thành hoàng là Tiền triều Thái giám Quốc công - là một hoạn quan trông coi điện Canh Y của triều trước, không rõ triều nào.
      Lễ hội: 15/01 và 08/4

QUẬN HOÀN KIẾM

  1. Ðình Xuân Phiến Thị là ngôi đình nằm trên số nhà 4, phố Hàng Quạt, thờ ông tổ nghề quạt họ Ðào. Năm xưa nơi đây, người dân làng Ðào Xá (còn gọi là làng Ðấu Quạt, ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) đã mang nghề truyền thống của tổ tiên ra dựng làng, lập nghiệp. Ông tổ nghề quạt họ Ðào được lập đình thờ, gọi là đình Xuân Phiến Thị, nghĩa là 'chợ quạt mùa xuân'. Về sau, phố Hàng Quạt trở thành điểm tập trung mua bán các loại quạt có nguồn gốc từ nhiều địa phương khác. Có thể liệt kê ra ở đây một số làng làm quạt lớn ở đồng bằng Bắc Bộ thời ấy như: làng Lủ (tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, Hà Nội) có quạt phất giấy, quạt phất bằng lượt mỏng (lượt - một loại lụa thưa có nhuộm mầu), quạt nan xương, quạt nan ngà...; làng Hải Yến (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) làm quạt nan trúc; làng Vác (tức làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Nội) nổi tiếng với quạt lụa dùng cho đội múa và quạt nan sừng châm kim; làng Vẽ (tức làng Ðông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội) làm quạt nan tre, nan nứa theo nhiều hình dạng khác nhau; quạt thóc của làng Vo (huyện Gia Lâm, Hà Nội); quạt lông ngỗng của làng Ðơ Ðình (Hà Ðông, Hà Nội), v.v...

QUẬN LONG BIÊN

  1. Đền Đức Ông ở Sở dĩ đền có tên Phúc Xá là do lấy theo tên cổ trước đây: Cơ Xá và An Xá sáp nhập thành Phúc Xá, sau này đổi tên là Bắc Biên. Đền Đức Ông Đào Kỳ - Đại tướng quân
  2. Đền Phúc Xá ở Tổ số 8, p. Ngọc Thụy, q. Long Biên. Quả chuông chùa An Xá đúc năm Chính Hòa 11 (1690) cho biết An Xá (nay là Phúc Xá) là quê hương của Ngô Tuấn tức Lý Thường Kiệt. Do sông Hồng lở bên hữu ngạn nên đền chuyển sang bên tả. Từ quả chuông Chính Hòa suy ra, đền Phúc Xá có thể được xây dựng muộn nhất là vào TK 17. Thờ anh hùng dân tộc, Thái úy Việt Quốc công Lý Thường Kiệt (1019-1105). Ngoài ra đình còn thờ Đào Kỳ, Phương Dung và 4 công chúa. (không có thần tích). Lễ hội: 03/6
  3. Đình, Chùa  Thanh Am thuộc p. Thượng Thanh, q. Long Biên. Đình Thanh Am được xây dựng từ sớm, hiện còn lưu giữ được nhiều đạo sắc, trong đó đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), từ đó suy ra có thể đình Thanh Am khởi dựng từ đầu TK 18. Thờ hai võ tướng thời Hai Bà Trưng là Đào Kỳ và Phương Dung và một văn quan thời Mạc là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) - Danh nhân văn hoá lớn của dân tộc vào TK 16. Chùa Thanh Am (Đông Linh tự) ở số 76 phố Thanh Am, p. Thượng Thanh, q. Long Biên. Được xây vào khoảng cuối thời Mạc, rồi được đại trùng tu vào thời Lê Trung Hưng, thời Nguyễn và gần đây. Lễ hội: 09-10/3
  4. Đình Thổ Khối  ở Đường đê DT378, p. Cự Khối, q. Long Biên. Đình Thổ Khối có từ lâu đời, muộn nhất cũng trước năm 1730. Thờ 6 vị thành hoàng làng: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Cao Sơn Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Bạch Đa Đại Vương, Dị Mệ Đại Vương và Đào Duy Trinh. Trong 6 vị đại vương thì 3 vị Bạch Đa, Dị Mệ và Đào Thành hoàng đại vương thần tích như sau: Bạch Đa, Dị Mệ là hai vị thổ quan thường nghỉ lại ở Thổ Khối mỗi khi từ miền núi về kinh đô vào triều. Còn Đào thành hoàng vốn làm nghề chài lưới. Một hôm nằm mộng được thần gọi đi đón vua. Ông lật đật giong thuyền, quả nhiên chẳng bao lâu gặp được đoàn tùy tùng hộ giá nhà vua (không rõ vua nào vào thời nào) vừa thoát khỏi vòng vây của địch quân. Ông liền rước vua sang thuyền và đưa vào bờ. Vua thoát nạn, bèn phong cho làm Thành hoàng.
  5. Đình, Chùa Trường Lâm (Linh Quang tự) ở số 76 phố Hoa Lâm,  p. Việt Hưng, q. Long Biên. Theo truyền ngôn, chùa có thể được xây dựng từ thời nhà Lý. Qua khảo sát các di vật của ngôi chùa, có thể nhận định sơ bộ là chùa được xây dựng dưới triều Lê; còn nếu căn cứ vào tạo tác tương thờ thì chùa chủ yếu mang phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Đình Trường Lâm ở tổ 2, p. Việt Hưng, q. Long Biên. Chưa có tài liệu cho biết đình được khởi dựng khi nào, nhưng căn cứ các hiện vật trong đình, thì có thể đình Trường Lâm được xây dựng vào nửa đầu TK 18. Thờ 3 vị Thành hoàng làng là: Đức Thánh Linh Lang thời Lý, Đào Hoa công chúa và Phù Nàng công chúa (2 vị sau không có thần tích). Lễ hội: 10-15/2

QUẬN NAM TỪ LIÊM

  1. Đình, Chùa Ngọc Trục đều ở thôn Ngọc Trục, xã  Đại Mỗ, huyện. Từ Liêm- nay là thôn Ngọc Trục, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm.
    • Đình Ngọc Trục: Chưa có tư liệu xác định niên đại ngôi đình, nhưng dựa vào hiện vật thì có thể cho rằng đình được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng TK 16.
      Thờ Ả Lã Nàng Đê là vị tướng tài của Hai Bà Trưng và Nàng Tập Bộ Thiên La Đại vương đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (là con Nàng Đê). Còn thờ Đào Trực, người ở Trung Văn, x. Ngọc Trục có công giúp Lê Hoàn dẹp Giặc Tống.
    • Chùa Ngọc Trục, theo cụ Bạch Ngọc Hải đã hơn sáu năm trụ trì tại chùa cùng các tài liệu và hiện vật còn lưu lại ở chùa cho thấy, chùa Ngọc Trục được xây dựng hơn 500 năm trước, lúc đầu được gọi là chùa Đại Bi, nay dân gọi là chùa chùa Đại Phúc.
    • Lễ hội làng Ngọc Trục cũng tưởng nhớ vị tướng thời hậu Lê là Đào Thế Tiên. Ông là người làng Trung Văn, xã Đại Mỗ. Khi đánh giặc về đến làng Ngọc Trục bị chết. Dân làng đã lập miếu thờ tại làng Ngọc Trục. Cứ 5 năm một lần, làng Ngọc trục và làng Trung Văn lại tổ chức lễ hội giao hảo một lần với ý nghĩa tôn vinh vị anh hung của quê hương và giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn với tất cả con cháu hai làng.
  2. Đình Trung Văn có từ thế kỷ XVIII. Thờ thành hoàng: Đức Lạc Long Quân và tướng Đào Trực. Lễ hội: 10 tháng Giêng. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1991) thuộc địa phận phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Đào Trực là một vị tướng thời Tiền Lê, được vua phong chức Thiên Bảo đứng đầu quan võ do có công chống giặc Tống xâm lược hồi thế kỷ X. Sau ngài đi đánh giặc Chiêm bị thương rồi mất. Từ Sấu Giá đến Trung Văn có 18 nơi thờ ngài.

HUYỆN ĐÔNG ANH

  1. Đình Đông Trù Thành hoàng làng Đông Trù, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội là vợ chồng ông bà Đào Kỳ - Phương Dung, hai danh tướng lớn của cuộc khởi nghĩa Hai Bà TrưngThành hoàng làng Đông Trù là vợ chồng ông bà Đào Kỳ - Phương Dung, hai danh tướng lớn của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
  2. Đền Ca công ở làng Lỗ Khê, x. Liên Hà, h. Đông Anh. Tại đây còn nhà thờ tổ nghề, gọi là đền thờ Ca Công, trong đó lưu một số văn bản Hán Nôm nói lên nguồn gốc của ca trù.
    • Trước hết là bản sao thần phả nhà thờ Ca Công Lỗ Khê do Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận (1466), Hộ bộ Thượng thư Đào Cử soạn năm Hồng Đức 7 (1476) thì ông tổ của ca trù Lỗ Khê là Đinh Dự (1413?) là con của Đinh Lễ - Từ nhỏ Đinh Dự đã rất thông minh, thích và giỏi đàn hát. Đinh Dự kết duyên với Đường Hoa Tiên Hải có tài về xướng ca, sau hai người trở về Lỗ Khê là quê mẹ Đinh Dự cùng lấy nghề ca hát, hình thành giáo phường Lỗ Khê, chuyên đi hát để động viên tướng sĩ đánh giặc, sau lại ca hát để vua quên đi bệnh tật. Khi đất nước hòa bình, ông bà được ban thưởng.   Sau hai ông bà cùng mất một ngày, dân làng Lỗ Khê lập đền thờ ông bà, gọi là Ca Công từ. Hiện nhà thờ 5 gian vẫn còn, năm 2001 được Nhà nước cấp kinh phí trùng tu. Trong nhà thờ còn tượng gỗ của hai ông bà đặt trong một khám. Ngoài ra, còn 5 đạo sắc (sao lại) của các triều vua phong cho Đinh Dự là Thanh Xà đại vương (do ông sinh năm Tỵ) và vợ ông là Mãn Đường Hoa công chúa. Theo đạo sắc ngày 15 tháng 6 năm Gia Long 9 (1810) thì nguyên gốc của ca trù Lỗ Khê mà đinh Dự và Đường Hoa thụ nghiệp là giáo phường huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
    • Khảo cứu: Có 2 ông Đinh Lễ sống cùng thời:
      • Đinh Lễ- công thần khai quốc thời Lê Sơ  có em là  Đinh Liệt, người  bị chết trong trận đánh nhau với quân Minh ở Hồng Mai năm 1427, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chưa dành được thắng lợi hoàn toàn (Bản kỷ toàn thư, q.10 tờ 30a).
      • Đinh Lễ cha Đinh Dự vốn là gia thần của Lê Lợi đến năm 1449 mới chết (Bản kỷ thực lục, q.11, tờ 77b).
  3. Đền Lê Xá ở th. Lê Xá, x. Mai Lâm, h. Đông Anh. Chưa có tư liệu chính xác cho biết đền khởi dựng khi nào. Nay căn cứ vào đồ thờ, các kết cấu kiến trúc và trang trí thì có thể suy đoán đền được dựng ít nhất từ giữa TK18 và được sửa chữa lớn vào năm 1922. Thờ Đào Kỳ và bà Phương Dung là 2 vị tướng có công trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hai người đã lập được nhiều công lao, sau nhà Hán sai Mã Viện sang xâm lược, Hai Bà Trưng thất trận. Đào Kỳ hi sinh, Phương Dung tuẫn tiết. Hai người được các đời vua sau phong làm thượng đẳng phúc thần và lập đền thờ ở thôn Lê Xá là hành cung khi xưa của thần
  4. Đình Ngọc Chi, Miếu Vĩnh Thanh - đều thuộc xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh.
    • Miếu ở thôn Vĩnh Thanh có lẽ cũng được xây dựng vào thời Lê như đình Ngọc Chi chăng?
    • Đều thờ 3 cha con tướng Nội hầu Hãn Công (là con ông Đào Hoàng và bà Hoàng Thị Trung). Nội hầu lấy Ả Nương, sinh Đống công và Vực công. Ba cha con cùng làm quan thời vua Thục. Họ đều là tướng giỏi và trung thành của An Dương Vương. Khi Triệu Đà xâm lược nước ta, vua Thục cho phép Nội hầu tuyển trai tráng trong trang Chiêm Trạch làm thân binh, đồng thời cử  3 cha con đi đánh giặc. Họ đã lập được nhiều công lớn, nhưng về sau vua Thục mắc kế gian của Triệu Đà nên đã để mất nước. Trước đó cả ba cha con Nội hầu đều khuyên can nhưng không được, mới treo ấn từ quan lui về quê nhà. Sau khi chiếm được nước ta, Triệu Đà cho vời 3 cha con Nội hầu ra làm quan nhưng cả 3 đều kiên quyết chống lại và đều hi sinh anh dũng tại quê nhà. Để tưởng nhớ 3 ông, nhân dân Chiêm Trạch đã lập đền thờ và suy tôn 3 ông làm Thành hoàng làng.
    • Đình ở thôn Ngọc Chi được xây dựng từ thời Lê. Thờ đồng vị với Miếu Ngọc Chỉ.
  5. Đình, Chùa Thái Bình
    • Chùa Thái Bình (Diên Phúc tự) ở th. Thái Bình, x. Mai Lâm, h. Đông Anh. Vào TK 11, thôn Thái Bình có một vị trí quan trọng đối với các vương triều Lý. Đây là quê hương của bà Phạm Thị đã sinh thành Lý Công Uẩn – người khai sáng ra triều Lý.
    • Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý.
    • Theo thời gian do lũ lụt và chiến tranh, ngôi chùa đã xuống cấp trầm trọng. Đến khi được xếp hạng là Di tích cấp quốc gia, dân làng đã dời chùa đến vị trí an toàn bên trong đê. Gần đây đã được trùng tu.
    • Chùa Thái Bình theo hệ phái Bắc tông. Đặc biệt chùa còn lưu giữ được hơn 2000 kinh phật.
    • Diên Phúc tự có tường hoa bao kín, bên phải có cửa ngách thông sang đình Thái Bình.
    • Đình Thái Bình: Chưa rõ được khởi dựng khi  nào. Hiện trong đình còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc gỗ mang phong cách nghệ thuật TK 18-19.
    • Thờ thành hoàng làng là Đào Kỳ và Phương Dung công chúa, là những danh tướng giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Đông Hán (25-220). Đình còn thờ Lý Chiêu Hoàng. Tại đình Thái Bình, Bà được vinh danh là Nguyên Lý thần hiệu, Phật Kim Thượng hoàng Thái hậu Linh ứng, Phụ quốc hiển hựu khang dân chi thần và tặng phong mỹ tự là công thần.
    • Lễ hội: 12/3; 25/7 và 12-13/12
  6. Đình Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội Bản kê khai năm 1938 ghi thần tích về cụ Đào kỳ được phong "Đào tướng quân dũng lược tế thế đại vương " và cụ Phương Dung được phong tặng "Phương Dung trinh liệt từ hòa đoan trang công chúa”.
  7. Đình Kim Tiên, x Xuân Nộn, h Đông Anh, HN. Theo thần phả đình thờ thần Bạch Hạc Tam Giang, công tích như sau: Ông Đào Trường tức Bạch Hạc Tam Giang là con thứ 3 (tức Đệ Tam) của Thái Phó đất Hoan Châu tên gọi là Đào Bột. Tướng quân Đào Trường được cử làm Thổ Lệnh Trưởng cai quan lệnh quận Nam Sơn. Khi giặc xâm lược nước Văn Lang, Vua Hùng Duệ Vương đã mời Thổ Lệnh Đào Trường về đánh giặc. Thổ Lệnh tâu nên đón đường thủy mà đánh. Nhà Vua nghe theo và giao cho Đào Trường thống lĩnh thủy quân, chỉ một trận đã dẹp tan giặc. Thắng trận Đào Trường được phong Thổ Lệnh Quốc Thống Đại Vương trấn giữ kinh thành Bạch Hạc, chức QUỐC TRƯỞNG LỆNH ĐÔ LẠC LONG HẦU ĐẠI TƯỚNG QUÂN. Sau đó ngài còn chỉ huy quân đội đánh tan cuộc xâm lược thứ hai và tiếp tục dẹp yên loạn ở Hồng Châu. Trên đường từ Hồng Châu về ông đã hóa ( tức là mất ở chỗ nay là gần đền Quan Đệ Tam). Nghe tin vua phong cho Đào Trường là Thượng Đẳng Phúc Thần và cho phép 172 làng lập đền thờ Bạch Hạc Tam Giang trong đó có làng Kim Tiên.
  8. Nhà tưởng niệm đồng chí Đào Duy Tùng ở xóm Chợ, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.Đồng chí Đào Duy Tùng sinh ngày 20/5/1924 trong một gia đình nhà nho yêu nước tại xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng, trải qua nhiều cương vị lãnh đạo từ cơ sở, huyện, tỉnh, đến lãnh đạo cấp cao của Đảng, đồng chí Đào Duy Tùng luôn giữ gìn phẩm chất của người cộng sản cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Dù ở đâu, dù bất cứ công việc nào, đồng chí luôn tận tâm, tận lực đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Đồng chí Đào Duy Tùng dành nhiều công sức cho công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

HUYỆN GIA LÂM

  1. Miếu Hiển Ứng, xóm Chợ xã Phù Đổng thờ Trấn quốc Đại tướng quân đánh giặc Ân từ đời Hùng Vương thứ VI - Đào Tướng Công
    • “Trước khi hoá về trời Thánh Gióng tâu vua Hùng Vương: tướng quân họ Đào là người tài, đức song toàn, đáng được phong tước Trấn quốc đại tướng quân giữ việc lớn trấn bắc, giữ an cho nước ta”
  2. Đình Hạ Thôn có tên Nôm là làng Nành thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm.
    Trước đây, 3 thôn Thượng, Trung, Hạ có một ngôi đình chung. Đình Hạ Thôn được xây dựng vào năm 1685 trên cơ sở nhường lại quyền sử dụng ngôi đình chung cho 2 thôn kia.
    Lý do là thời gian này, Hạ Thôn có ông họ Nguyễn làm quan tới chức Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Đô đốc thần vũ Tứ vệ quân vụ sự, thăng Đề đốc, tước Vịnh Quốc công cùng phu nhân là Đào Thị Quý, ngoài việc bỏ tiền bạc xây chùa riêng cho Hạ Thôn còn cúng thêm 200 quan tiền cổ, 7 mẫu ruộng vào đình để cúng dường. Về sau đình được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Điều đó lý giải sự pha tạp của hai phong cách kiến trúc nghệ thuật Lê và Nguyễn trên ngôi đình hiện nay.
    Đình Hạ Thôn thờ thần Lữ Gia - một nhân vật lịch sử thời  nhà Triệu (207TCN-111TCN). Lữ Gia là Tể tướng của vua thứ 5, cũng là vị vua cuối cùng của nhà Triệu, kiên quyết chống lại âm mưu thôn tính của nhà Hán, nhưng bị thất bại bị Hán Vũ Đế (194-188 TCN) giết chết, nhà Triệu bị diệt, biến thành quận huyện của nhà Hán. Ngoài thần hoàng Lữ Gia, đình Hạ Thôn còn phụng thờ ông họ Nguyễn nói trên làm Á thánh
  3. Nghè Keo tức đền Giao Tất 膠漆, có từ lâu đời. Theo truyền thuyết, vào cuối thời Lý có ông Đào Bột từ Thanh Hóa đến thôn Giao Tất lấy vợ rồi ở lại làm thầy giáo. Con trai là Phúc, văn võ song toàn, sau đỗ tiến sĩ, được vua gả cho công chúa Tiên Anh. Bỗng giặc từ biển đến xâm lược, Đào Phúc được giữ chức thượng tướng quân đem binh đi dẹp, Tiên Anh xin vua cho lo việc lương thảo.
    • Thắng trận, Đào Phúc cùng quân sĩ trở lại kinh đô. Ông về quê mẹ, gặp vợ và bái tổ đường ở Giao Tất. Hôm ấy là mùng 7 tháng 4 âl, dông tố chợt nổi lên, hai người cùng hóa, mối đùn kín thành mộ lớn. Dân làng cử người lên tâu, vua sai quan về xem xét, rồi lệnh cho lập nghè tạc tượng để thờ.
    • Tại đây có phối thờ tổ nghề ca trù là ông Đinh Dự và bà Mãn Đường Hoa. Hội nghè hàng năm âl được tổ chức 2 lần vào mùng 6 tháng 4 (chính lễ) và 13 tháng 11 (ngày hoá của tổ nghề). Dân làng xưa đều kiêng húy tên các ngài thành hoàng.
    • Trong cung cấm còn thờ hậu thần là quận công họ Đỗ có công xây chùa Keo chung cho hai làng Giao Tất và Giao Tự. Lăng mộ của quận công hiện ở phía đông nghè Keo. Hàng năm đến mùng 10 tháng 3 vào đám, thôn trưởng hai làng mang trầu cau đến cáo yết ở từ vũ, ngày 20 hai làng rước thánh vị về cung.
    • Cạnh cổng nghè là miếu thờ Tứ Phủ nằm trong gốc một cổ thụ rất lớn. Sân nghè rộng và rợp bóng cây, ở giữa có sập đá. Toà tiền tế 3 gian 2 dĩ, tường hồi bít đốc tay ngai. Phía sau là phương đình 2 tầng 8 mái, cổ diềm chấn song con tiện. Toà hậu cung 3 gian, tường hồi bít đốc tay ngai. Từ ngoài vào bày đôi tượng phỗng quỳ, tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ, trên bệ cao là tượng Đào Phúc và Tiên Anh. Gian bên trái thờ Đinh Dự và Mãn Đường Hoa. Gian bên phải thờ Mẫu và hậu thần.
    • Lễ hội: 10/3
  4. Nghè Lê Xá ở xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm. Cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép cụ thể về niên đại khởi dựng của di tích. Căn cứ vào tài liệu Hán Nôm có niên đại sớm nhất còn trong di tích, đó là đạo sắc năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767), qua đó có thể đoán định niên đại khởi dựng của di tích vào đầu TK 18 và được trùng tu vào các thời kỳ tiếp theo. Thời Nguyễn, nghè được trùng tu lớn, thời kỳ cải cách ruộng đất, nghè bị tàn phá, đến năm 1989 nhân dân địa phương mới khôi phục nghè với quy mô, diện mạo như ngày nay. Thờ 3 anh em người họ Đào đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và có nhiều công lao hiển hách. Để tưởng nhớ công ơn của ba anh em họ Đào, nhân dân Đa Tốn đã lập miếu thờ
  5. Miếu Sén Tóc (thôn Ngọc Động) thờ Đào Đô Thống
  6. Nghè Ông Hai (thôn Lê Xá) thờ Đào Chiêu Hiển. Lễ hội: 10/02
  7. Đình Ngọc Động ở th. Ngọc Động, x. Đa Tốn  h. Gia Lâm. Tương truyền đình Ngọc Động có từ rất xưa. Thờ 3 vị tướng họ Đào đã có công giúp  Hai Bà Trưng đánh đuổi Thái thú Tô Định của nhà Đông Hán (25-220): - Đô Thống đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Hùng tài Trợ thống đại vương) - Chiêu Hiển đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Anh linh Cảm ứng đại vương). - Tam Lang đại vương (gia phong Tế thế Hộ quốc Thông minh Chính trực đại vương). Lễ hội: 09-12/02
  8. Đình, Đền Phú Thị ở th. Phú Thị (làng Sủi), x. Phú Thị, h. Gia Lâm.Tên làng Phú Thị có từ TK 16 cho đến nay. Đình Phú Thị có nguồn gốc từ một ngôi đền cổ thờ nhân vật lịch sử Đào Hoa Liên. Ông là một nhân vật quan trọng trong vương triều nhà Đinh, là người văn võ toàn tài, được thờ ở đình này. Theo nhiều tài liệu lịch sử ghi chép lại, Đào Liên Hoa người Hà Trung, Thanh Hóa, lớn lên theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Ông được phong Tây Vĩ đại vương, Đền Phú Thị (Đền Sủi) thờ bà Nguyên phi Ỷ Lan, xây dựng sau khi bà qua đời khoảng đầu TK 12. Trải qua bao năm tháng đình, đền Sủi đã được trùng tu sửa chữa lớn 5 lần trong 3 TK 17-19. Các mảng trang trí kiến trúc của các lần trùng tu đó còn lại đến ngày nay. Chùa Phú Thị ở phía sau đình. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng từ rất sớm, vì năm 1066, nguyên phi Ỷ Lan đã về cầu tự tại chùa này. Khi mới xây chùa đã nổi tiếng là đẹp và đến sau khi nguyên phi Ỷ Lan về cầu tự lại cho tu sửa, tô điểm đẹp đẽ hơn. Chùa được xây dựng cùng với đền và đình trên một khu đất cao rộng thành một cụm kiến trúc, thông với nhau bằng các cửa ngách nhỏ bên trong, chùa được xây sau đình, gồm 2 tòa nhà song song với hậu cung đình.
  9. Đình làng Sủi, Phú Thị, Gia Lâm Đình Sủi thờ tướng nhà Đinh Đào Liên Hoa, có công dẹp loạn và mở mang đất hoang. Ông được Đinh Bộ Lĩnh phong làm Tây Vị Đại Vương rồi được cử đi Chánh sứ sang Trung Quốc. Khi huyện Gia Lâm có giặc loạn nổi lên, ông đem quân đi dẹp rồi lập đồn cùng trang ấp ở Thổ Lỗi, dậy nhân dân sản xuất, xây nhà cửa lo cuộc sống. Dân làng Sủi đã lập đình Sủi thờ ông và tôn ông là Thành hoàng làng
  10. Đình, đền Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội thờ phụng ông Đào Kỳ và bà Phương Dung là hai vị tướng tài của Hai Bà Trưng
  11. Đình Trường Lâm, phố Hoa Lâm, p Việt Hưng, h Gia Lâm, HN thờ Đức Thánh Linh Lang Đại Vương như các đình khu Gia Lâm thành một cụm thờ Linh Lang như các Đình Sài Đồng, Kim Quan Thượng, Thổ Khối, Lâm Du ... Đình còn thờ Thiên Tiên Đào Anh Phu Nhân và Phù Nương Công Chúa. Làng Trường Lâm có nhiều quán rắn đặc sản Lệ Mật.

HUYỆN THƯỜNG TÍN

  1. Đình Hướng Xá, Quất Động, Thường Tín Đình làng Hướng Xá thờ tướng Đào Công Thắng là vị tướng văn võ toàn tài đã giúp vua Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, được phong làm đại vương lục quốc triệu lễ bộ công của triều đình. Nhân dân nhớ công ơn người, đã lập đình thờ người và tôn là Thành Hoàng đô hộ Hùng kế Đống Binh Đại Vương
  2. Nếu như Đa Hoà có lễ rước thần (thành hoàng làng) về đền tổng vào ngày đầu hội, thì Yên Vĩnh lại rước thần (vợ chồng Chử Đồng Tử) đi phát du (đi chơi), cùng với kiệu rước gậy, nón của ngài và tượng cá vào ngày cuối hội, tới các làng trong tổng Yên Vĩnh. Phát du là nghi lễ chính của lễ hội Chử Đồng Tử ở đền Dạ Trạch, tái hiện cuộc chinh phục các dải đất ven sông của vợ chồng Chử Đồng Tử, lập nên các xóm làng ở vùng đầm Dạ Trạch xưa. Kiệu thánh đến đâu, dân các làng đều có bàn thờ trước cửa nhà nghênh lễ. Đoàn kiệu vợ chồng Chử Đồng Tử nghỉ tại đình Đông Tảo, là quê của bà Hữu (nàng Tây Sa, Ngải Hòa), dự tiệc làng và trở về vào buổi chiều, lễ hội kết thúc. Lễ hội Chử Đồng Tử ở đền Hạ, xã Tự Nhiên (Thường Tín, Hà Nội) còn gọi là hội xã Tự Nhiên. Địa danh này có nguồn gốc từ truyền thuyết về bãi Tự Nhiên là nơi gặp gỡ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Đây là xã nhất thôn, hình thành từ làng Gòi xưa, có ba đền thờ Chử Đồng Tử (Thượng, Hạ và Thủy Cơ, nay chỉ còn đền Hạ) và miếu thờ thành hoàng làng là tướng Đào Thành thời Hai Bà Trưng.

HUYỆN PHÚC THỌ

  1. Miếu làng Võng Ngoại, x Võng Xuyên, h Phúc Thọ, HN nơi Thủy Tinh gặp Sơn Tinh. Miếu nằm bên ao nhìn ra Đình. Miếu có thần tích khá chi tiết về dòng dõi Thánh Tam Giang Bạch Hạc Đào Trường với năm anh em (Ngũ Vị Tôn Quan) hay người bố Đào Bột có hai phu nhân và chuyện ngài ba lần đánh giặc ... Thần tích ghi tại Miếu về Đức Thánh TAM GIANG BẠCH HẠC như sau:
  • Truyền rằng thời Hùng Vương thứ 18 Hùng Duệ Vương ở Huyện An Lão phủ Kinh Môn có người tên là Đào Bột nhà dòng dõi (vua Hùng) chí khí khác người. Năm 10 tuổi ông về kinh ứng thí được phong chức Thái Phó. Ông kết hôn với bà Phạm Thị Điểm, vài năm sau bà mất ông lấy bà vợ thứ là Nguyễn Thị Hương người huyện Kim Bảng xứ Sơn Nam. Một hôm Đào Công mơ thấy điềm lành một thời gian sau Phu Nhân (không nói rõ phu nhân nào) đến giờ Thìn ngày 12 tháng 2 năm Đinh Mão sinh được một BỌC có năm người con trai dung mạo khác thường, được ba tháng mười ngày ông bà làm lễ đặt tên các con là: Cử, Cường, Trường, Thạch Khanh và Lê Lân. Đến năm 19 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời. Vài năm sau đất nước bị thiên tai mùa màng thất bát, trộm cắp giặc giã nổi lên. Vua Hùng xuống chiếu cầu tài, cả năm anh em đều được phong tướng cử đi dẹp giặc, người thứ ba tức Đào Trường được cử làm Thổ Lệnh trưởng cai quản xứ Sơn Nam. Vài năm sau các ông thứ nhất, thứ hai và thứ năm (có thần tích ghi thứ tư) qua đời đều được phong Phúc Thần cũng là lúc giặc Thục đánh đất nước. Vua Hùng mời Thổ Lệnh Đào Trường bàn đánh giặc, Đào Trường tâu nên đón đường thủy mà đánh, vua chấp nhận và phong cho chức NAM LONG TRƯỞNG LỆNH CHÚA TỂ QUẬN PHONG CHÂU đem quân đánh giặc, trận này thắng to 5000 quân giặc bị diệt, bắt tướng Thục.
  • Lần thứ 2 sau quân Thục lại tấn công, Vua lại cử ông đi dẹp giặc, ông cùng Tản Viên Sơn Thánh phá tan quân giặc.
  • Lần thứ 3 giặc Hồng Châu thay quân Thục kéo sang đánh, Vua lại cử ông đi đánh, phá được giặc, lấy đầu tướng giặc là Trương Dũng. Nhân dân đón mừng (Theo tt ở Kim Tiên lúc về ông mất ở Hưng Yên). Ngày 10 tháng 5 Đào Trường giao cho em là Thạch Khanh chỉ huy quân đội sau đó ra ngã ba sông (ngã Ba Lương) rồi biến thành hạc trắng bay lên trời. Vua phong ngài là Thượng Đẳng Phúc Thần cho dựng Quán thờ ở thành Phong Châu cho phép 172 làng thờ thánh TAM GIANG BẠCH HẠC, trong đó có làng Võng Ngoại.

HUYỆN HOÀI ĐỨC

  1. Đền Thượng, Sơn Đồng, Hoài Đức Thờ Đào Trực, tướng Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành sau này. Ông có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân và giặc Tống xâm lược, sau lại truyền nghề mỹ nghệ cho dân làng Sơn Đồng
  2. Đình Phú Đa, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức. Làng Phú Hòa xưa là Phú Đa, tên Nôm là làng Gia nay thuộc xã Bình Phú. Nơi đây thờ Đào Khang. Ông vốn là người trang Kiệt Đặc bên Hồng Châu (nay là tỉnh Hải Hưng). Sau khi cha mẹ chết, ông dời quê, đi lưu lạc kiếm sống. Đến Phú Đa, ông ở lại cấy cày lập nghiệp. Nghe tin Hai Bà truyền hịch đánh giặc Hán ông đứng ra chiêu mộ trai tráng trong vùng, được trên nghìn người. Và tất cả lên đường theo Hai Bà ra trận. Chiến thắng trở về, ông lập đồn binh ở Phú Đa và mất tại đây ngày mùng 3 tháng Tư.
  3. Làng Văn Côn còn thờ cả Lôi Công. Làng Yên Lộ còn thờ cả Thủy Hải và Tĩnh Quốc tam lang. Làng Trang Văn (chưa tìm được tên làng này) còn thờ cả Thủy Hải và Đào Quang Nhiên.

HUYỆN PHÚ XUYÊN (0)

  1. Miếu Đào Xá, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội thờ Thái Sư Á Vương Đào Cam Mộc, danh thần có công đầu lập Lý Công Uẩn lên ngôi vua

QUẬN HÀ ĐÔNG (01)

  1. Đình Nhân Trạch, thờ phụng nhị tướng Đào Kỳ - Phương Dung triều đại nhị vua Hai Bà Trưng. Hiện nay Đình Nhân Trạch thuộc phường Phú Lương, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội

HUYỆN THANH OAI

  1. Đền thờ Đại Vương Đào Quang Nhiêu tại xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai, Hà Nội.  Đào Quang Nhiêu là Thượng Quốc Tướng Quân, ông Ngoại là Tả Đô Đốc Lễ Xuyên Hầu. Thân sinh là Dũng Quận Công mất lúc 30 tuổi nên từ nhỏ Cụ Đào Quang Nhiêu ở với cậu ruột cũng là Thái Bảo Yết Quận Công Đào Quang Hoa .
    • Theo Đại Việt sử ký toàn thư ( Trang 324 tập18 quyển 19 ) trong chiến tranh Trịnh -  Nguyễn tướng Đào Quang Nhiêu  cùng với các Chúa Trịnh đã tham gia nhiều cuộc chiến khốc liệt vùng Hà Tĩnh. Sau đó Cụ được bổ làm Tổng Trấn Xứ Nghệ kiêm Bố Chính ( Quảng Bình ). Gần 19 năm cai quản Xứ Nghệ Cụ đã để lại nhiều ân đức trên vùng quê này.
  2. Chùa Sổ thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Chùa Sổ được xây dựng vào thời Lý. Tháng Chạp năm 1527, chùa được trùng tu lại. Văn bia trong chùa có ghi: Quận công Đào Quang Hoa làm quan ở trấn Lạng Sơn, vốn là một người con quê hương Thanh Oai, cùng vợ là bà Trần Thị Ngọc Lâm đã đem của cải và quyên góp tiền để xây lại chùa, đồng thời cúng dường thêm 10 mẫu ruộng. Từ đó, Hội Linh quán có thêm tam quan, gác chuông, nhà bia, 17 pho tượng mới và trở thành chùa thờ Phật cùng các vị tiên thánh của Đạo giáo. Chùa được trùng tu thêm hai lần vào năm 1634 (thời Lê Trung hưng) và 1901 (thời vua Thành Thái nhà Nguyễn).

HUYỆN ỨNG HOÀ

  1. Đào Xuân Lan tổ nghề làm đàn Đào Xá, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, Hà Nội
  • Tương truyền, nghề đàn Đào Xá có từ hơn 200 năm trước do cụ tổ nghề Đào Xuân Lan đã hành hương sang xứ Bắc rồi mang nghề về làng. Ban đầu cũng chỉ dạy cho người trong họ, để trong lúc nông nhàn có thêm việc và cũng là hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, các đám hát, phường hội rất cần những đàn tam, đàn tứ, tì bà... Rồi nghề phát triển khắp làng, việc buôn bán thịnh vượng ở cửa hàng trên TP. Từ đó nghề làm nhạc cụ trở thành nghề truyền thống. Các loại đàn được sản xuất ở đây gồm: đàn bầu, đàn tam thập lục, đàn đáy, đàn nguyệt, đàn tì bà... cho đến những cây đàn nhị, đàn hồ, đàn líu.
  • Trải qua bao thăng trầm, biến cố lịch sử, làng nghề vẫn lưu giữ được nét riêng của nghề làm đàn. Những cây đàn xuất xứ từ làng Đào Xá có mặt ở khắp các cửa hàng đàn lớn, nhỏ trong cả nước, không một cuộc thi nào, hội diễn âm nhạc nào lại vắng bóng nhạc cụ do làng Đào Xá làm ra.

Các huyện chưa phát hiện Đình, Đền, Miếu, Nghè thờ nhân vật người họ Đào

QUẬN BA ĐÌNH
QUẬN TÂY HỒ
QUẬN THANH XUÂN
QUẬN HOÀNG MAI
HUYỆN THANH TRÌ
HUYỆN SÓC SƠN

Đào Quang Huynh - Sưu tầm

Bài viết mới
Một số Đình, Đền, Chùa thờ Thành Hoàng người họ Đào tại Hà Nội